Thứ Sáu, 6 tháng 6, 2014

Các học thuyết cơ bản của Đông Y (tiếp)


 
B. NGŨ HÀNH
B.a. Khái niệm cơ bản
Thời cổ, triết học cho rằng Mộc - Hoả - Thổ – Kim – Thuỷ là vật chất cơ bản cấu thành vũ trụ, chúng có những đặc tính nhất định. Trong vũ trụ có nhiều loại, nhiều dạng vật chất theo như tính chất của 5 loại cơ bản đối chiếu, rồi tiến hành quy về năm loại lớn là: Mộc – Hoả - Thổ – Kim – Thuỷ, dùng nó để nói về quan hệ tương hỗ của sự vật với nhau, gọi chung là ngũ hành. Đông y hay dùng học thuyết Ngũ hành để giải thích mối quan hệ giữa các bộ phận trong cơ thể và giữa cơ thể với hoàn cảnh bên ngoài. Như nhân tố mùa, tiết của giới tự nhiên quan hệ với ngũ tạng trong cơ thể con người. Căn cứ các đặc điểm của chúng mà phân vào ngũ hành, cụ thể như sau:
Ngũ hành
Mộc
Hoả
Thổ
Kim
Thuỷ
Ngũ tạng
Can
Tâm
Tỳ
Phế
Thận
Phủ
Đảm
Tiểu trường
vị
Đại trường
Bàng quang
Ngũ khiếu
Mắt
Lưới
Mồm
Mũi
Tai
Ngũ thể
Gân
Mạch
Cơ bắp
Da lông
Xương
Ngũ chí
Giận
Mừng
Lo
Nghĩ
Sợ
Ngũ sắc
Xanh
Đỏ
Vàng
Trắng
Đen
Ngũ vị
Chua
Đắng
Ngọt
Cay
Mặn
Ngũ khí
Phong
Thử
Thấp
Táo
Hàn
Mùa tiết
Xuân
Hạ
Trưởng Hạ
Thu
Đông
Cứ theo phân loại ở bảng trên, lấy hành Mộc làm ví dụ, ứng với ngũ hành có các Tạng, Khắc là ức chế.

Quy hoặch của tương sinh giữa Ngũ tạng là Can với Tâm, Tâm với Ty, Tỳ với Phế, Phế với Thận, Thận với Can, (tức là Mộc - Hoả - Thổ - Kim - Thuỷ - Mộc); Trong quan hệ qua lại giữa cái nó sinh ra và cái sinh ra nó, sinh ra nó là mẹ, nó sinh ra là con. Ví dụ: Hoả là mẹ của Thổ, đồng thời là con của Mộc. Quy luật tương khắc là Can khắc Ty, Tỳ khắc Thận, Thận khắc Tâm, Tâm khắc Phế, Phế khắc Can (là Mộc - Thổ - Thuỷ - Hoả - Kim - Mộc) trong quan hệ tương khắc có cái nó khắc là "Sở - thắng" và cái khắc nó là "Sở bất thắng". Ví dụ: Hoả là sở thắng kim và sở bất thắng của thuỷ. Ngoài ra còn có quan hệ phản khắc (tương vũ). Ví dụ: Tỳ thổ vốn khắc Thận thuỷ, nhưng lúc có bệnh, Thận thuỷ phát triển phản khắc lại Tỳ thổ sinh ra lỏng nhão. Một tạng thúc đẩy một tạng, một tạng ức chế một tạng, thúc đẩy và ức chế cùng kết hợp đã duy trì quan hệ bình thường giữa các tạng, duy trì được hoạt động sinh lý bình thường của con người.
B.b. Vận dụng lâm sàng
Ngũ hành và chấn trị lâm sàng có quan hệ, như trong vọng chẩn thường lấy sắc thái mặt mà phân biệt tạng phủ có bệnh: sắc xanh thường do Can phong sắc đỏ thường do Tâm hoá, sắc vàng thường thuộc Tỵ thấp, sắc trắng là Phế hàn, sắc đen là do Thận hư. Lại như khi chữa bệnh của tạng phủ phải theo 5 mùi vị của thuốc đối với Ngũ tạng mà dùng (theo bảng trên)
Ngày x­ưa, "Ngũ hành sinh, khắc" ứng dụng trên lâm sàng rất máy móc, chặt chẽ, thật ra có một số không phù hợp với thực tế, do đó Sau này khi ứng dụng ít nói đến. ở đây xin nêu những điều rất thường dùng như­ sau :
Từ quan hệ ngũ tạng tư­ơng sinh là một tạng với riêng một tạng có tác dụng thúc đẩy.
Trên lâm sàng thư­ờng lợi dụng quan hệ này mà chữa một số bệnh bệnh, nh­ư căn cứ quan hệ Thổ sinh Kim mà dùng pháp bồi bổ Tỳ để chữa bệnh lao, đây cũng là bài Thổ sinh Kim". Lại như­ khi chữa chứng "Can d­ương thư­ợng cang" thư­ờng theo quan hệ Thuỷ sinh Mộc, dùng phư­ơng pháp tư­ d­ưỡng Thận âm cũng gọi là "T­ư Thuỷ hàm Mộc" (bồi dư­ỡng cho thuỷ là có bổ cho Can trong đó.).
Về quan hệ t­ương khắc của ngũ tạng là một tạng với riêng một tạng có tác dụng ức chế, như­ng ở tình huống bình thư­ờng các ức chế đó không có hại, ngư­ợc lại, còn có tác dụng điều hoà hợp đồng. Ví dụ: nh­ư quan hệ sinh khắc của 1 âm hoả và Thận thuỷ tình huống bình thư­ờng, gọi là "Thuỷ Hoả t­ương tế", nhưng khi quan hệ t­ương khắc vư­ợt quá mức bình th­ường (t­ương thừa) thì tạng bi khắc sẽ ra bệnh biến. Nh­ư khi quan hệ hiệp đồng, điều hoà của Tâm Thận bị phá vỡ sẽ xuất hiện các chứng : tầm phiền (tim hồi hộp), mất ngủ, hay quên, l­ưng gối mềm yếu, gọi là "Tâm Thận bất giao" hoặc "thuỷ hoả bất tể" , khi chữa, dùng pháp giao thông Tám Thận, lại nh­ư Can mộc quá thịnh có thể đư­a đến Tỳ thổ mất điều hoà cũng xuất hiện chứng đau bụng là chảy gọi là "mộc khắc thổ hoặc "Can mộc thừa Tỳ", khi chữa cần th­ư Can kiện Tỳ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét