1. VẤN CHẤN: (HỎI)
Vấn chẩn là phần trọng yếu trong tứ chẩn, thông qua vấn chẩn kỹ lưỡng thường có thể đến chẩn đoán chính xác.
Nội dung của vấn chẩn, nói chung giống như Tây y, cần hiểu rõ nơi đau của người bệnh, thời gian phát bệnh, nguyên nhân, diễn biến, tóm tắt tình hình chạy chữa (bao gồm cả uống thuốc và phản ứng, khái quát sinh hoạt của người bệnh, nghiện ngập, thói quen ăn uống, tình hình suy nghĩ, tiền sử gia đình).
Vấn chẩn của Đông y có những chỗ khác, trước đây những điểm chính của vấn chẩn khái quát thành câu ca: Thập vấn: Nhất vấn hàn nhiệt; nhị vấn Hãn; tam vấn ẩm thực; tứ vấn tiện; ngũ vấn đầu thân; lục vấn hung phúc; thất lung, bát kiệt, cụ đương biện; cửu vấn cựu bệnh, thập vấn nhân; tái kiêm phục dược tham cơ biến phụ nữ ứng vấn kinh, đới, sản; tiếu nhi đương vấn ma, chẩn, ban. Tạm dịch là: 1 hỏi nóng rét; 2 hỏi mồ hôi; 3 hỏi ăn, uống; 4 hỏi đái, ỉa; 5 hỏi đầu, mình; 6 hỏi ngực, bụng; 7 hỏi điếc tai; 8 hỏi khát nước; 9 hỏi bệnh cũ; 10 hỏi nguyên nhân gây bệnh. Lại hỏi thêm uống thuốc đã có chuyển biến. Đàn bà phải hỏi hành kinh, khí hư, chửa đẻ; Trẻ em thì hỏi sởi đậu. Có thể tham khảo thêm trong đó. Ngày nay đem nội dung chẩn đoán bằng hỏi khái quát như sau:
A. HÀN NHIỆT VÀ MỒ HÔI:
Cần hỏi rõ có hay không phát sốt, bị rét hay nóng, bị năng hay nhẹ, đặc điểm của cơn sốt, có hay không có mồ hôi, thời gian ra mồ hôi, tính chất và nhiều ít của mồ hôi. Quy tụ những chẩn đoán như sau:
- Lúc mới phát bệnh: phát sốt, ớn lạnh là ngoại cảm biểu chứng; phát sốt nhẹ, ớn lạnh nhiều không có mồ hôi là ngoại cảm phong hàn biểu chứng; phát sốt nặng, ớn lạnh nhẹ, có mồ hôi là ngoại cảm phong nhiệt biểu chứng.
- Lạnh một cơn, nóng mọt cơn, gọi là hàn, nhiệt vãng lai. Nếu như thời gian phát bệnh rất nhanh có kèm theo đắng miệng, khô họng, váng đầu, hoa mắt, tức ngực, sườn đầy chướng, là bán biểu, bán lý.
- Phát sốt không ớn lạnh, có mồ hôi, miệng khát, táo bón là lý thực
nhiệt chứng.
- Bệnh mãn tính, về chiều sốt nhẹ, ngực và lòng bàn tay, bàn chân nóng (ngũ tâm phiền nhiệt), gò má hồng, mồ hôi khô, ra mồ hôi trộm là âm hư phát nhiệt. Bình thường mà sợ lạnh, ngắn hơi, mệt mỏi, tự ra mồ hôi là dương hư.
B. ĐẦU, THÂN, NGỰC, BỤNG:
(Chủ yếu hỏi rõ nơi đau, tính chất và thời gian đau).
- Đầu đau, đầu choáng, đau không dứt, đau ở hai bên thái dương, phát sốt ớn lạnh, phần nhiều là ngoại cảm. Khi đau, khi không, thường kèm theo choáng váng, không nóng, lạnh phần nhiều là nội thương lý chứng. Một bên đầu đau (thiên đầu thống) thường do nội phong hoặc huyết hư. Ban ngày đau đầu, làm mệt thì đau nặng hơn là do dương hư. Sau giờ Ngọ đâu đầu là âm hư. Ban đêm đau đầu là huyết hư. Đau đầu chóng mặt, mắt đỏ, miệng đắng, thường là can, đảm hoả thịnh. Đầu váng mà tim hồi hộp, ngắn hơi, yếu đuối, thường là khí huyết hư nhược. Đột nhiên đầu váng, thường là thực chứng; Váng đầu lâu ngày là hư chứng. Đầu ê ẩm, nặng căng như bỏ vào trong bao thường là thuộc thấp nặng.
- Mình đau: Toàn thân đau buốt, phát sốt ớn lạnh là ngoại cảm. Bệnh lâu ngày mà mình đau là khí huyết bất túc. Vùng lưng đau thường là thuộc thận hư. Các khớp, cơ bắp, gân, xương ở tứ chi đau đớn, tê bại, hoặc các khớp sưng phù, nơi đau cố định hoặc di động là phong hàn thấp bại.
- Ngực đau: đau ngực phát sốt, ho ra mủ máu thường là phế ung (sưng phổi có mủ). Đau ngực sốt về chiều, ho khan, ít đờm, trong đờm lẫn máu là lao phổi (phổi kết hạch). Ngực đau, hướng đâu lan ra xương bả vai, hoặc xương sườn phía sau đau nhói, tự thấy cảm gác nén vùng tim là ngực bại (hung bại) - cần chú ý đó không phải là tim cắn đau, mà sườn dưới đau là can khí bất thư.
- Bụng đau: đau bụng trên, nôn khan, nôn ra nước dãi trong, gặp lạnh đau dữ dội là vị hàn. Bụng trên chướng, ợ chua, hôi mùi mốc là thực trệ (ăn không tiêu). Đau quanh rốn, lúc đau lúc không, khi đau nổi hòn cục là đau do giun đũa. Đau bụng phát sốt, ỉa chảy hoặc đi lỵ ra mủ máu, lý cấp hậu trọng (quặn bụng và nặng lỗ đít) là thấp nhiệt thực chứng. Đau bụng ê ẩm liên miên, phân nát, sợ lạnh, tứ chi mát, là hàn thấp hư chứng.
Nói tóm lại: đau dội là thực chứng, đau kéo dài là hư. Sau khi ăn đau tăng là thực, sau khi ăn giảm đau là hư. Đau dữ dội kịch liệt, nơi đau cố định, sờ vào đau tăng hoặc sợ là thực. Đau lâm râm, không cố định, sờ nắn giảm đau hoặc ưa sờ là hư.
C. ĂN UỐNG:
Hỏi rõ tình hình ăn uống của người bệnh như: thèm ăn hay không, số lượng ăn, khẩu vị, phản ứng sau khi ăn và có khát hay không ?
- Trong khi bị bệnh mà vẫn ăn uống bình thường là vị khí chưa bị tổn thương. Không muốn ăn mà ợ hơi là có tích trệ. Ăn nhiều, hay ăn là vị có thực hoả (ý nghĩa có khác với triệu chứng của đái đường, của chứng tiêu khát).
- Miệng khát, thích uống mát là vị nhiệt thương âm. Miệng khát thích uống nóng là vị dương bất túc. Miệng nhạt không khát, hoặc là biểu chứng đang chuyển vào lý, hoặc là dương hư hàn thịnh lý chứng. Miệng khô không muốn uống là tỳ hư thấp thịnh.
- Miệng đắng là can, đảm có nhiệt. Miệng chua là trường, vị tích trệ. Trong cổ muốn phát ra ngọt là tỳ có thấp nhiệt. Miệng nhạt là hư chứng.
D. ĐẠI TIỂU TIỆN:
Hỏi rõ số lần đái ỉa, tính chất, trạng thái phân, có ỉa, đái ra máu hay không ?
- Đại tiện bế kết, khô khan, khó ỉa, phát sốt là nhiệt chứng. Bệnh kéo dài, người mới đẻ, người già mà táo bón là thuộc khí hư hoặc tân hao.
- Ỉa phân nát, trước khi ỉa không đau bụng là tỳ vị hư hàn. Tảng sáng đau bụng ỉa chảy (còn gọi là ngũ canh tiết) là thận dương hư. ỉa ra như nước, phóng ra như bắn, có cảm giác nóng rát hậu môn là vị, trường có nhiệt. ỉa ra phân thối, nhão nhoét, nhiều bọt, bụng đau, ỉa xong giảm đau là thực (ăn) trệ.
- Ỉa ra máu mủ, quặn đau như mót rặn, bụng đau phát sốt là thấp nhiệt hạ lỵ. ỉa ra phân đỏ, đen như keo sơn, thường là xuất huyết đoạn trên đường tiêu hoá (dạ dày xuất huyết). Trong phân dính máu hồng tươi là xuất huyết đoạn dưới đường tiêu hoá (trực tràng xuất huyết). Cả hai nơi xuất huyết và nguyên nhân của chúng cần được kiểm tra kỹ hơn nữa.
- Nước tiểu nhiều mà trong thường là hư hàn; trong mà són nhiều lần hoặc đi không cầm là khí hư; nếu kèm vẩn đục là thấp nhiệt.
- Trong đêm đi đái nhiều, hay đái dầm là thận hư. Đái són, đái gấp, đái đau, đái khó hoặc kèm theo máu mủ, cát sỏi, là chứng lậu. Miệng khát, đái nhiều, uống nhiều, thân thể gầy mòn rất nhanh là chứng tiêu khát. Đột nhiên phát sinh bí đái, hoặc chỉ đái són được vài giọt, mùi nước đái rất hôi, bàng quang đau đớn dữ dội mà nóng lên là thực chứng. Nước tiểu dần dần giảm ít, thậm chí không đủ đái, sắc mặt trắng nhợt, lưng đùi, tay, chân xanh, lạnh, là hư chứng.
Đ. NGỦ
- Mất ngủ: là khó vào giấc ngủ, lại dễ tỉnh, và không nhiều mê mộng. Đêm khó vào giấc ngủ, ăn uống giảm dần, mệt mỏi, uể oải, hồi hộp hay quên, tinh thần hoảng hốt, thuộc tâm tỳ lưỡng hư, thường do suy nghĩ quá độ gây nên. Hư phiền không ngủ được, sốt về chiều, ra mồ hôi trộm, lưỡi hồng ít tân (nước) mạch tế, sác, thường là âm hư. Sau khi bệnh nặng hoặc về già khí huyết đều hư, thường dẫn đến mất ngủ. Đêm ngủ không yên, ngủ ít, dễ tỉnh, tâm phiền, miệng lưỡi mọc mụn, đầu lưỡi hồng, là tâm hoả cang thịnh... Mất ngủ, nhiều mộng, đau đầu, miệng đắng, tính tình hấp tấp, dễ cáu là can hoả cang thịnh. Trong khi mộng nằm kêu lên là đảm khí hư hoặc vị nhiệt.
- Ngủ nhiều: thần mệt, chi mỏi mà ngủ nhiều là khí hư, ăn xong uể oải, muốn ngủ là tỳ khí bất túc. Sau khi khỏi bệnh ham ngủ là chính khí chưa hồi phục. Mình nặng mạch hoãn, ngủ nhiều là thấp thắng
E. TAI ĐIẾC - TAI Ù
Thận, can, đàm và tai có quan hệ gắn bó; điếc dấy mạnh lên là thực chứng can, đảm hoả vượng, điếc lâu là thận hư, khí hư. Trong lúc có ôn bệnh mà xuất hiện ta điếc là chỉ chứng nhiệt ta thương âm.
Tai ù kèm theo tim hồi hộp, đầu váng là thuộc hư chứng; có tức ngực, đau sườn, miệng đắng, phân khô rắn mà buồn nôn oẹ là chứng thực.
G. ĐẶC ĐIỂM ĐÀN BÀ - TRẺ EM
Đối với phụ nữ và trẻ em, trừ những việc hỏi như trên ra lại cần hỏi thêm những nội dung sau đây nữa:
- Đối với người bệnh đàn bà cần hỏi rõ đã có chồng hay chưa, kinh nguyệt (bao gồm cả tuổi bắt đầu có kinh), chu kỳ, tình trạng kinh nguyệt nhiều ít, có đau hay không, mùi và mầu sắc khí hư, và tình hình sản dục (số lần chửa đẻ, có khó đẻ hay đẻ rơi không).
Kinh nguyệt đến trước kỳ: số máu nhiều, màu đỏ sẫm và sền sệt, miệng khô, môi hồng là huyết nhiệt, Kinh nguyệt tím đen, có máu cục là thực nhiệt.
Kinh nguyệt chậm sau kỳ: số máu ít, mầu hồng nhạt mà lỏng sắc mặt vàng úa là huyết hư, nhưng chi lạnh, mặt trắng là hư hàn. Máu tím bầm thành cục, bụng dưới đau, sợ sờ, hoặc có cục sưng là khí trệ huyết ứ. Kinh nguyệt có mùi hôi là chứng nhiệt, có mùi tanh là chứng hàn.
Khí hư trong, lỏng mà tanh là hư hàn, vàng đặc là thấp nhiệt.
Sau khi đẻ mà sản dịch không dứt, kèm có đau bụng, sợ sờ nắn là huyết ứ.
- Đối với người bệnh là trẻ em: cần hỏi rõ quá trình lớn lên, lướt quá về những bệnh đã mắc; thóp thở khép kín, đi, chạy, nói sớm hay chậm, đã tiêm phòng hay chưa, đã qua sởi, thuỷ đậu hay chưa và các cách đã bổ dưỡng.
2. VỌNG CHẨN (NHÌN)
Vọng chẩn là thông qua quan sát thần, sắc, hình thái để nói tình trạng chung; thông qua xem lưỡi biến hoá để nói thêm một bước tính chất của bệnh tật. Trẻ em dưới 3 tuổi lại xem đường vân ngón tay để bổ trợ cho chẩn đoán.
A. TRẠNG THÁI CHUNG
Tinh thần nét mặt: tinh thần ủ dột, ánh mắt không có thần, phản ứng tình cảm trên nét mặt chậm, sắc mặt mờ tối không phản chiếu ánh sáng là biểu hiện chính khí đã tổn thương. Sắc mặt khô xác, môi nhợt là huyết hư. Sắc mặt vàng úa là tỳ hư. Bệnh lâu dài sắc mặt đen tối là thận hư. Hai gò má ửng hồng về chiều, sốt về chiều là âm hư nội nhiệt. Trẻ em mắt đỏ mà chung quanh môi xanh là can phong. Ở trong các bệnh: sắc cứ sáng tươi là bệnh còn nhẹ, mờ tối là bệnh đã nặng.
Trẻ em bệnh ôn nhiệt hoặc cấp, mãn kinh phong thấy nhăn cầu vận động không linh hoạt, có khi cố định, nhìn trợn ngược, nhìn thẳng đơ, nhìn lệch là thuộc can phong nội động, hoặc đàm nhiệt vướng tắc gây ra, đó là chứng kinh phong. Trẻ em bị mắc bệnh mà khóc không có nước mắt, lỗ mũi khô mà không có nước mũi, là chứng nặng; Sắc mũi trắng bợt là khí huyết hư nhược.
Hình thái: Hình thể gầy mòn, chi thể mỏi mệt, da dẻ khô khan là khí huyết hư nhược. Nếu béo mà ăn ít là tỳ hư có đàm. Hình gày ăn ít là trung tiêu có hoả.
Da dẻ toàn thân và niêm mạc phát vàng là hoàng đản. Sắc vàng úa, tươi như da quất, phát sốt là dương hoàng (cấp tính hoàng đản); sắc mặt vàng nhạt, mờ như khói hun, không sốt hoặc sốt nhẹ là âm hoàng (mãn tính).
Toàn thân phù thũng, phát bệnh nhanh chóng, các khớp đau buốt, hoặc có ớn lạnh, sợ gió là thuỷ khí nội đình, phong tà ở ngoại nhiễu. Mình nặng, tinh thần đặc biệt khốn quẫn là thấp nặng. Đau lưng, chi lạnh, sắc mặt tối là thận dương hư. Chi dưới phù thũng, sắc mặt vàng úa, ăn uống không ngon, bụng chướng, phân lỏng, nát là tỳ dương hư.
Da dẻ xuất hiện ban chẩn (lốm đốm là chẩn, thành mảng là ban) là nội nhiệt, ở trong bệnh ôn nhiệt thì đó là dấu hiệu chủ yếu chỉ nhiệt đã nhập huyết phần. Ban chẩn sắc tươi sáng, đỏ đắn là bệnh tình còn nhẹ, mờ ám là bệnh tình đã nặng.
Phụ: Phép vọng chẩn về bệnh giun đũa: dùng phép vọng chẩn để chẩn đoán bệnh giun đũa thời xa xưa đã được ghi lại, gần đây có người quan sát hơn một nghìn trường hợp trẻ em bị bệnh giun đũa đã chứng minh các phương pháp chẩn đoán là có ý nghĩa nhất định. Trẻ em bị bệnh giun đũa thể hiện như sau:
- Trên mặt lưỡi xuất hiện ban đỏ, ven bờ rõ nét, hình tròn thường lỗi khỏi mặt lưỡi như đầu vú, nơi chốn không nhất định, số lượng không kể.
- Niêm mạc môi dưới xuất hiện những hạt tròn, thương là màu xám, nốt chẩn nhỏ như đầu mũi kim, số lượng không kể.
- Củng mạc xuất hiện xanh chàm, hình tam giác, tròn, hoặc bán nguyệt, phân bố ở trên lưỡi trên đỉnh mao mạch (huyết quản nhỏ) không lồi khỏi bề mặt.
- Trên mặt lưỡi xuất hiện ban trắng, hình tròn, rất rõ ràng, ở giữa trắng nhạt, không lồi khỏi bề mặt.
Đây là bốn loại dương tính thể chứng, có khi đơn độc, hoặc cùng xuất hiện, thường thấy nhất là ban đỏ trên lưỡi. Thể chứng ít, nhiều thường là bằng chứng của số lượng giun nhiều ít ở trong bụng. Tỷ lệ đúng của vọng chẩn so với xét nghiệm phân (bao gồm cả phép đếm trứng) là rất cao. Cách này không cần chuẩn bị khác, giản tiện, sử dụng, chắc chắn.
B. THIỆT CHẨN ( XEM LƯỠI )
Thiệt chẩn là bộ phận trọng yếu trong chẩn đoán đông y. Đông y quan sát cái lưỡi thật tỷ mỷ, từ trong thiệt chẩn mà tìm thấy thực hư của tạng phủ, thịnh suy của khí huyết, hao tổn của tân dịch và tính chất của ngoại tà. Do đó ở một mức độ nhất định có thể giúp cho phán đoán tính chất, mức nông sâu và hướng phát triển của bệnh tật.
B.a. Chất lưỡi
Chất lưỡi chỉ là cái thể của lưỡi, nó cùng với các tạng phủ có quan hệ mật thiết. Loại quan hệ này có đặc điểm ở từng chỗ khác nhau. Đầu lưỡi chủ về phản ánh bệnh biến của tim phổi, như đầu lưỡi đỏ là tâm hoả thượng viêm. Ven lưỡi chủ về phản ánh bệnh biến của gan mật, như ven lưỡi có ban tím là can uất (trên lâm sàng thường thấy một số người bệnh gan thì ven lưỡi có điểm ban xanh tím, hoặc tĩnh mạch dưới lưỡi trương phồng). Phần giữa lưỡi chủ yếu phản ánh bệnh biến tỳ, vị. Cuống lưỡi chủ yếu phản ánh bệnh biến của thận.
Trên lâm sàng quan sát chất lưỡi và theo biến hoá 4 mặt: mầu sắc, độ ẩm thấp, hình thái và đồng thái để phân tích.
- Độ ẩm thấp và màu sắc chính của lưỡi thường là: hồng nhạt và ẩm nước.
- Sắc lưỡi nhạt hơn bình thường là huyết hư, dương hư hoặc hàn chứng. Sắc nhạt mà không rêu là khí huyết lưỡng hư: nhạt mà ẩm trơn là hàn. Loại sắc lưỡi này gọi là lưỡi trắng nhạt, tức là hồng ít, trắng nhiều. Chứng bệnh là dinh dưỡng trở ngại, bần huyết và một số bệnh nội tiết như phù niêm dịch (dịch dẻo dính) đều thấy lưỡi trắng nhạt.
Sắc lưỡi hồng tươi mà khô là âm hư; hồng tươi mà không rêu là âm hư hoả vượng ở cuối kỳ ôn nhiệt, lao phổi; cường năng tuyến giáp trạng và bệnh đái đường cũng thấy lưỡi âm hư. Chất lưỡi mầu hồng thắm hoặc đỏ thẫm thuộc về thực nhiệt. Nói tóm lại: đậm là nhiệt sâu. Khi bị bệnh truyền nhiễm cấp tính quá nặng hoặc khi viêm nhiễm đưa đến nhiễm độc máu đều thấy lưỡi đỏ sẫm mà sinh gai nhọn là doanh phần nhiệt thịnh; đỏ sẫm mà sắc tươi là nhiệt thương tâm bào lạc. Chứng bại huyết và khi bị bệnh cấp tính viêm nhiễm nghiêm trọng cũng thấy lưỡi đỏ sẫm. Lưỡi đỏ mà bóng, không rêu là vị âm mất đi, bệnh tình nguy ngập.
Sắc lưỡi từ đỏ sẫm chuyển sang đỏ tím mà khô là dấu hiệu chính để chỉ bệnh ôn nhiệt phát triển đến huyết phần. Viêm nhiễm nặng khi phát triển đến suy thấp và tuần hoàn cũng xuất hiện lưỡi tím. Tím mở là huyết ứ, tím nông mà ẩm là hàn chứng.
Lưỡi xanh lam là chứng nặng của khí, huyết cùng suy thoái. Xanh mà sáng bóng, không rêu là dự đoán sẽ xấu. Khi hô hấp, tuần hoàn suy kiệt, thiếu ô xy năng cũng xuất hiện lưỡi xanh.
B.b. Hình thái và động thái của lưỡi:
Chủ yếu là quan sát các tình trạng thể lưỡi béo, gầy, già, non, khô, ẩm, rãnh nứt và hoạt động.
Dáng lưỡi béo mập, hồng nhạt mà ven lưỡi có ngấn răng là hư chứng, hàn chứng. Lưỡi to béo là chứng suy tuyến giáp, đầu chi phình to. Lưỡi to béo mà đỏ sẫm là tân dịch đã tổn thương. Chất lưỡi rắn chắc, thô kệch (ngược với béo mập) là thuộc thực chứng nhiệt chứng.
Trên lưỡi mọc gai nhọn là nhiệt cực nội kết, gai nhọn càng to, càng nhiều là nhiệt kết càng sâu. Sốt cao, tinh hồng nhiệt (sốt đỏ mặt như con tinh tinh), viêm phổi chứng nặng đều thấy trên lưỡi mọc gai.
Trên lưỡi có vết nứt thương là âm hư hay dinh dưỡng kém, nhưng sốt cao mất nước cũng thấy nứt. Cá biệt có khi lưỡi nứt là tiên thiên tính.
Dáng lưỡi khi co duỗi thì rung động, sắc lưỡi hồng nhạt là dương khí bất túc, chứng này thấy ở bệnh thần kinh suy nhược và thể hư sau khi khỏi ốm. Rung động mà sắc lưỡi hồng tươi là âm hư, thường thấy ở can phong nội động, trúng gió và cường tuyến giáp.
Lưỡi lè ra mà lệch thường là chứng trúng gió.
Lưỡi cứng, vận động khó khăn, vì vậy mà tiếng nói không rõ là can phong nội động gây ra, thường là điềm báo trước chứng trúng gió hoặc là di chứng sau khi trúng gió.
Lưỡi mềm yếu vô lực cũng phát sinh ở tình hình bệnh khác nhau. Lưỡi hồng, khô mà yếu là nhiệt thịnh thương âm. Bệnh lâu ngày chất lưỡi trắng nhạt mà yếu là khi huyết đều hư. Lưỡi đỏ sẫm mà yếu là âm hao đã cực.
B.c. Rêu lưỡi
Rêu lưỡi bình thường do vị khí hình thành thì trắng , mỏng, sáng và ẩm. Khi có bệnh rêu lưỡi phát sinh các loại biến hoá. Lúc chẩn đoán, quan sát rêu lưỡi chủ yếu là theo mầu sắc, tân dịch, dầy mỏng. Nhưng cần chú ý loại trừ hiện tượng giả do ăn uống, hoặc do thuốc gây nên như ăn trầu, ô mai,
đậu đen...
- Rêu trắng đều thuộc hàn chứng, hư chứng (cũng có thuộc nhiệt, thuộc thực) trắng mỏng mà trơn là ngoại cảm phong hàn, trắng nõn mà trơn là lý hư hàn. Trắng nhẫy mà nhẵn là trong có đàm thấp. Trắng như rắc phấn là bệnh ôn dịch. Trong bệnh nhiệt, rêu lưỡi trắng có lẫn vàng là bệnh tà hoả nhiệt từ biểu vào lý, chứng tỏ bệnh tình đang phát triển.
- Rêu vàng thuộc nhiệt chứng, sắc vàng càng sau nhiệt càng nặng, rêu mỏng hơi vàng là ngoại cảm phong nhiệt. Vàng dầy mà khô là vị nhiệt thương âm, vàng mà dầy nhẫn là tỳ vị thấp nhiệt hoặc tỳ vị tích trệ. Sắc vàng nhạt mà ẩm hoặc kèm theo dầy, rêu đục là do thấp trệ gây ra.
- Rêu đen thường thuộc lý chứng, nói chung thể hiện tình rất nặng, nhưng có chia ra hàn nhiệt. Rêu lưỡi đen, ẩm trơn, chất lưỡi hồng nhạt là hàn chứng. Rêu lưỡi đen, khô ráo chất lưỡi hồng tươi là hoả nhiệt thương âm. Rêu lưỡi đen mà ẩm hoặc kèm theo dầy, rêu đục là do thấp trệ gây ra.
- Rêu đen thường thuộc lý chứng, nói chung thể hiện bệnh tình rất nặng, nhưng có chia ra hàn nhiệt. Rêu lưỡi đen, ẩm trơn, chất lưỡi hồng nhạt là hàn chứng. Rêu lưỡi đen, khô ráo chất lưỡi hồng tươi là hoả nhiệt thương âm. Rêu lưỡi đen mà táo là hoả thịnh tân khô. Rêu đen khô nứt, gai nhọn cao lên là thận thuỷ tưởng tuyệt, bệnh tình nguy nặng.
Rêu lưỡi từ dầy chuyển thành mỏng, mặt lưng sáng trơn như gương, hoặc rêu lưỡi rải rác có chỗ xanh là tân dịch hao tổn, âm hư thuỷ khô, bệnh tình nghiêm trọng. Những người bệnh thiếu máu ác tính trẻ em trường vị có thấp nhiệt hoặc có ký sinh trùng cũng thấy có rêu lưỡi trắng mỏng hoặc hơi vàng, lại cũng có rải rác rêu xanh. Nguyên nhân của rải rác rêu xanh là cục bộ niêm mạc co rút tạo ra niêm mạc chết mà thành.
Tóm lại: Rêu lưỡi từ trắng biến thành vàng, xong chuyển thành rêu trắng môi là thuận chứng. Ruê lưỡi từ trắng chuyển thành vàng, rồi chuyển thành đen là nghịch chứng. Rêu lưỡi chuyển biến nhanh cũng thể hiện bệnh tình ác hoá.
Trên đầy giới thiệu chất lưỡi và rêu lưỡi chỉ để học tập. Trên thực tế thiệt chẩn là quan sát toàn bộ cái lưỡi theo hiện tượng, tất nhiên cần quan sát toàn bộ chất lưỡi và rêu lưỡi kết hợp lại mà phân tích, bởi vì biến hoá của chất lưỡi và rêu lưỡi có quan hệ hỗ tương phức tạp.
Tổng hợp quan hệ biến hoá của chất lưỡi và rêu lưỡi với bệnh chứng đại để là: phàm thuộc nhiệt chứng, chất lưỡi tất hồng, rêu lưỡi tất vàng, phàm thuộc hàn chứng, chất lưỡi tất nhạt, rêu lưỡi tất nhiều nước mà trơn; phàm thuộc thực chứng, thể lưỡi tất rắn chắc; phàm thuộc hư chứng, thể lưỡi tất phì nộn (béo non); phàm thuộc biểu chứng, rêu lưỡi trắng mỏng không khô. Khí bệnh chủ yếu biến hoá ở rêu lưỡi. Huyết bệnh chủ yếu biến hoá ở chất lưỡi.
Để tiện nắm được thiệt chẩn, nay đem chất và rêu lưỡi kê thành bảng dưới đây theo biến hoá thường thấy và kết hợp với biện chứng luận trị.
Vấn chẩn là phần trọng yếu trong tứ chẩn, thông qua vấn chẩn kỹ lưỡng thường có thể đến chẩn đoán chính xác.
Nội dung của vấn chẩn, nói chung giống như Tây y, cần hiểu rõ nơi đau của người bệnh, thời gian phát bệnh, nguyên nhân, diễn biến, tóm tắt tình hình chạy chữa (bao gồm cả uống thuốc và phản ứng, khái quát sinh hoạt của người bệnh, nghiện ngập, thói quen ăn uống, tình hình suy nghĩ, tiền sử gia đình).
Vấn chẩn của Đông y có những chỗ khác, trước đây những điểm chính của vấn chẩn khái quát thành câu ca: Thập vấn: Nhất vấn hàn nhiệt; nhị vấn Hãn; tam vấn ẩm thực; tứ vấn tiện; ngũ vấn đầu thân; lục vấn hung phúc; thất lung, bát kiệt, cụ đương biện; cửu vấn cựu bệnh, thập vấn nhân; tái kiêm phục dược tham cơ biến phụ nữ ứng vấn kinh, đới, sản; tiếu nhi đương vấn ma, chẩn, ban. Tạm dịch là: 1 hỏi nóng rét; 2 hỏi mồ hôi; 3 hỏi ăn, uống; 4 hỏi đái, ỉa; 5 hỏi đầu, mình; 6 hỏi ngực, bụng; 7 hỏi điếc tai; 8 hỏi khát nước; 9 hỏi bệnh cũ; 10 hỏi nguyên nhân gây bệnh. Lại hỏi thêm uống thuốc đã có chuyển biến. Đàn bà phải hỏi hành kinh, khí hư, chửa đẻ; Trẻ em thì hỏi sởi đậu. Có thể tham khảo thêm trong đó. Ngày nay đem nội dung chẩn đoán bằng hỏi khái quát như sau:
A. HÀN NHIỆT VÀ MỒ HÔI:
Cần hỏi rõ có hay không phát sốt, bị rét hay nóng, bị năng hay nhẹ, đặc điểm của cơn sốt, có hay không có mồ hôi, thời gian ra mồ hôi, tính chất và nhiều ít của mồ hôi. Quy tụ những chẩn đoán như sau:
- Lúc mới phát bệnh: phát sốt, ớn lạnh là ngoại cảm biểu chứng; phát sốt nhẹ, ớn lạnh nhiều không có mồ hôi là ngoại cảm phong hàn biểu chứng; phát sốt nặng, ớn lạnh nhẹ, có mồ hôi là ngoại cảm phong nhiệt biểu chứng.
- Lạnh một cơn, nóng mọt cơn, gọi là hàn, nhiệt vãng lai. Nếu như thời gian phát bệnh rất nhanh có kèm theo đắng miệng, khô họng, váng đầu, hoa mắt, tức ngực, sườn đầy chướng, là bán biểu, bán lý.
- Phát sốt không ớn lạnh, có mồ hôi, miệng khát, táo bón là lý thực
nhiệt chứng.
- Bệnh mãn tính, về chiều sốt nhẹ, ngực và lòng bàn tay, bàn chân nóng (ngũ tâm phiền nhiệt), gò má hồng, mồ hôi khô, ra mồ hôi trộm là âm hư phát nhiệt. Bình thường mà sợ lạnh, ngắn hơi, mệt mỏi, tự ra mồ hôi là dương hư.
B. ĐẦU, THÂN, NGỰC, BỤNG:
(Chủ yếu hỏi rõ nơi đau, tính chất và thời gian đau).
- Đầu đau, đầu choáng, đau không dứt, đau ở hai bên thái dương, phát sốt ớn lạnh, phần nhiều là ngoại cảm. Khi đau, khi không, thường kèm theo choáng váng, không nóng, lạnh phần nhiều là nội thương lý chứng. Một bên đầu đau (thiên đầu thống) thường do nội phong hoặc huyết hư. Ban ngày đau đầu, làm mệt thì đau nặng hơn là do dương hư. Sau giờ Ngọ đâu đầu là âm hư. Ban đêm đau đầu là huyết hư. Đau đầu chóng mặt, mắt đỏ, miệng đắng, thường là can, đảm hoả thịnh. Đầu váng mà tim hồi hộp, ngắn hơi, yếu đuối, thường là khí huyết hư nhược. Đột nhiên đầu váng, thường là thực chứng; Váng đầu lâu ngày là hư chứng. Đầu ê ẩm, nặng căng như bỏ vào trong bao thường là thuộc thấp nặng.
- Mình đau: Toàn thân đau buốt, phát sốt ớn lạnh là ngoại cảm. Bệnh lâu ngày mà mình đau là khí huyết bất túc. Vùng lưng đau thường là thuộc thận hư. Các khớp, cơ bắp, gân, xương ở tứ chi đau đớn, tê bại, hoặc các khớp sưng phù, nơi đau cố định hoặc di động là phong hàn thấp bại.
- Ngực đau: đau ngực phát sốt, ho ra mủ máu thường là phế ung (sưng phổi có mủ). Đau ngực sốt về chiều, ho khan, ít đờm, trong đờm lẫn máu là lao phổi (phổi kết hạch). Ngực đau, hướng đâu lan ra xương bả vai, hoặc xương sườn phía sau đau nhói, tự thấy cảm gác nén vùng tim là ngực bại (hung bại) - cần chú ý đó không phải là tim cắn đau, mà sườn dưới đau là can khí bất thư.
- Bụng đau: đau bụng trên, nôn khan, nôn ra nước dãi trong, gặp lạnh đau dữ dội là vị hàn. Bụng trên chướng, ợ chua, hôi mùi mốc là thực trệ (ăn không tiêu). Đau quanh rốn, lúc đau lúc không, khi đau nổi hòn cục là đau do giun đũa. Đau bụng phát sốt, ỉa chảy hoặc đi lỵ ra mủ máu, lý cấp hậu trọng (quặn bụng và nặng lỗ đít) là thấp nhiệt thực chứng. Đau bụng ê ẩm liên miên, phân nát, sợ lạnh, tứ chi mát, là hàn thấp hư chứng.
Nói tóm lại: đau dội là thực chứng, đau kéo dài là hư. Sau khi ăn đau tăng là thực, sau khi ăn giảm đau là hư. Đau dữ dội kịch liệt, nơi đau cố định, sờ vào đau tăng hoặc sợ là thực. Đau lâm râm, không cố định, sờ nắn giảm đau hoặc ưa sờ là hư.
C. ĂN UỐNG:
Hỏi rõ tình hình ăn uống của người bệnh như: thèm ăn hay không, số lượng ăn, khẩu vị, phản ứng sau khi ăn và có khát hay không ?
- Trong khi bị bệnh mà vẫn ăn uống bình thường là vị khí chưa bị tổn thương. Không muốn ăn mà ợ hơi là có tích trệ. Ăn nhiều, hay ăn là vị có thực hoả (ý nghĩa có khác với triệu chứng của đái đường, của chứng tiêu khát).
- Miệng khát, thích uống mát là vị nhiệt thương âm. Miệng khát thích uống nóng là vị dương bất túc. Miệng nhạt không khát, hoặc là biểu chứng đang chuyển vào lý, hoặc là dương hư hàn thịnh lý chứng. Miệng khô không muốn uống là tỳ hư thấp thịnh.
- Miệng đắng là can, đảm có nhiệt. Miệng chua là trường, vị tích trệ. Trong cổ muốn phát ra ngọt là tỳ có thấp nhiệt. Miệng nhạt là hư chứng.
D. ĐẠI TIỂU TIỆN:
Hỏi rõ số lần đái ỉa, tính chất, trạng thái phân, có ỉa, đái ra máu hay không ?
- Đại tiện bế kết, khô khan, khó ỉa, phát sốt là nhiệt chứng. Bệnh kéo dài, người mới đẻ, người già mà táo bón là thuộc khí hư hoặc tân hao.
- Ỉa phân nát, trước khi ỉa không đau bụng là tỳ vị hư hàn. Tảng sáng đau bụng ỉa chảy (còn gọi là ngũ canh tiết) là thận dương hư. ỉa ra như nước, phóng ra như bắn, có cảm giác nóng rát hậu môn là vị, trường có nhiệt. ỉa ra phân thối, nhão nhoét, nhiều bọt, bụng đau, ỉa xong giảm đau là thực (ăn) trệ.
- Ỉa ra máu mủ, quặn đau như mót rặn, bụng đau phát sốt là thấp nhiệt hạ lỵ. ỉa ra phân đỏ, đen như keo sơn, thường là xuất huyết đoạn trên đường tiêu hoá (dạ dày xuất huyết). Trong phân dính máu hồng tươi là xuất huyết đoạn dưới đường tiêu hoá (trực tràng xuất huyết). Cả hai nơi xuất huyết và nguyên nhân của chúng cần được kiểm tra kỹ hơn nữa.
- Nước tiểu nhiều mà trong thường là hư hàn; trong mà són nhiều lần hoặc đi không cầm là khí hư; nếu kèm vẩn đục là thấp nhiệt.
- Trong đêm đi đái nhiều, hay đái dầm là thận hư. Đái són, đái gấp, đái đau, đái khó hoặc kèm theo máu mủ, cát sỏi, là chứng lậu. Miệng khát, đái nhiều, uống nhiều, thân thể gầy mòn rất nhanh là chứng tiêu khát. Đột nhiên phát sinh bí đái, hoặc chỉ đái són được vài giọt, mùi nước đái rất hôi, bàng quang đau đớn dữ dội mà nóng lên là thực chứng. Nước tiểu dần dần giảm ít, thậm chí không đủ đái, sắc mặt trắng nhợt, lưng đùi, tay, chân xanh, lạnh, là hư chứng.
Đ. NGỦ
- Mất ngủ: là khó vào giấc ngủ, lại dễ tỉnh, và không nhiều mê mộng. Đêm khó vào giấc ngủ, ăn uống giảm dần, mệt mỏi, uể oải, hồi hộp hay quên, tinh thần hoảng hốt, thuộc tâm tỳ lưỡng hư, thường do suy nghĩ quá độ gây nên. Hư phiền không ngủ được, sốt về chiều, ra mồ hôi trộm, lưỡi hồng ít tân (nước) mạch tế, sác, thường là âm hư. Sau khi bệnh nặng hoặc về già khí huyết đều hư, thường dẫn đến mất ngủ. Đêm ngủ không yên, ngủ ít, dễ tỉnh, tâm phiền, miệng lưỡi mọc mụn, đầu lưỡi hồng, là tâm hoả cang thịnh... Mất ngủ, nhiều mộng, đau đầu, miệng đắng, tính tình hấp tấp, dễ cáu là can hoả cang thịnh. Trong khi mộng nằm kêu lên là đảm khí hư hoặc vị nhiệt.
- Ngủ nhiều: thần mệt, chi mỏi mà ngủ nhiều là khí hư, ăn xong uể oải, muốn ngủ là tỳ khí bất túc. Sau khi khỏi bệnh ham ngủ là chính khí chưa hồi phục. Mình nặng mạch hoãn, ngủ nhiều là thấp thắng
E. TAI ĐIẾC - TAI Ù
Thận, can, đàm và tai có quan hệ gắn bó; điếc dấy mạnh lên là thực chứng can, đảm hoả vượng, điếc lâu là thận hư, khí hư. Trong lúc có ôn bệnh mà xuất hiện ta điếc là chỉ chứng nhiệt ta thương âm.
Tai ù kèm theo tim hồi hộp, đầu váng là thuộc hư chứng; có tức ngực, đau sườn, miệng đắng, phân khô rắn mà buồn nôn oẹ là chứng thực.
G. ĐẶC ĐIỂM ĐÀN BÀ - TRẺ EM
Đối với phụ nữ và trẻ em, trừ những việc hỏi như trên ra lại cần hỏi thêm những nội dung sau đây nữa:
- Đối với người bệnh đàn bà cần hỏi rõ đã có chồng hay chưa, kinh nguyệt (bao gồm cả tuổi bắt đầu có kinh), chu kỳ, tình trạng kinh nguyệt nhiều ít, có đau hay không, mùi và mầu sắc khí hư, và tình hình sản dục (số lần chửa đẻ, có khó đẻ hay đẻ rơi không).
Kinh nguyệt đến trước kỳ: số máu nhiều, màu đỏ sẫm và sền sệt, miệng khô, môi hồng là huyết nhiệt, Kinh nguyệt tím đen, có máu cục là thực nhiệt.
Kinh nguyệt chậm sau kỳ: số máu ít, mầu hồng nhạt mà lỏng sắc mặt vàng úa là huyết hư, nhưng chi lạnh, mặt trắng là hư hàn. Máu tím bầm thành cục, bụng dưới đau, sợ sờ, hoặc có cục sưng là khí trệ huyết ứ. Kinh nguyệt có mùi hôi là chứng nhiệt, có mùi tanh là chứng hàn.
Khí hư trong, lỏng mà tanh là hư hàn, vàng đặc là thấp nhiệt.
Sau khi đẻ mà sản dịch không dứt, kèm có đau bụng, sợ sờ nắn là huyết ứ.
- Đối với người bệnh là trẻ em: cần hỏi rõ quá trình lớn lên, lướt quá về những bệnh đã mắc; thóp thở khép kín, đi, chạy, nói sớm hay chậm, đã tiêm phòng hay chưa, đã qua sởi, thuỷ đậu hay chưa và các cách đã bổ dưỡng.
2. VỌNG CHẨN (NHÌN)
Vọng chẩn là thông qua quan sát thần, sắc, hình thái để nói tình trạng chung; thông qua xem lưỡi biến hoá để nói thêm một bước tính chất của bệnh tật. Trẻ em dưới 3 tuổi lại xem đường vân ngón tay để bổ trợ cho chẩn đoán.
A. TRẠNG THÁI CHUNG
Tinh thần nét mặt: tinh thần ủ dột, ánh mắt không có thần, phản ứng tình cảm trên nét mặt chậm, sắc mặt mờ tối không phản chiếu ánh sáng là biểu hiện chính khí đã tổn thương. Sắc mặt khô xác, môi nhợt là huyết hư. Sắc mặt vàng úa là tỳ hư. Bệnh lâu dài sắc mặt đen tối là thận hư. Hai gò má ửng hồng về chiều, sốt về chiều là âm hư nội nhiệt. Trẻ em mắt đỏ mà chung quanh môi xanh là can phong. Ở trong các bệnh: sắc cứ sáng tươi là bệnh còn nhẹ, mờ tối là bệnh đã nặng.
Trẻ em bệnh ôn nhiệt hoặc cấp, mãn kinh phong thấy nhăn cầu vận động không linh hoạt, có khi cố định, nhìn trợn ngược, nhìn thẳng đơ, nhìn lệch là thuộc can phong nội động, hoặc đàm nhiệt vướng tắc gây ra, đó là chứng kinh phong. Trẻ em bị mắc bệnh mà khóc không có nước mắt, lỗ mũi khô mà không có nước mũi, là chứng nặng; Sắc mũi trắng bợt là khí huyết hư nhược.
Hình thái: Hình thể gầy mòn, chi thể mỏi mệt, da dẻ khô khan là khí huyết hư nhược. Nếu béo mà ăn ít là tỳ hư có đàm. Hình gày ăn ít là trung tiêu có hoả.
Da dẻ toàn thân và niêm mạc phát vàng là hoàng đản. Sắc vàng úa, tươi như da quất, phát sốt là dương hoàng (cấp tính hoàng đản); sắc mặt vàng nhạt, mờ như khói hun, không sốt hoặc sốt nhẹ là âm hoàng (mãn tính).
Toàn thân phù thũng, phát bệnh nhanh chóng, các khớp đau buốt, hoặc có ớn lạnh, sợ gió là thuỷ khí nội đình, phong tà ở ngoại nhiễu. Mình nặng, tinh thần đặc biệt khốn quẫn là thấp nặng. Đau lưng, chi lạnh, sắc mặt tối là thận dương hư. Chi dưới phù thũng, sắc mặt vàng úa, ăn uống không ngon, bụng chướng, phân lỏng, nát là tỳ dương hư.
Da dẻ xuất hiện ban chẩn (lốm đốm là chẩn, thành mảng là ban) là nội nhiệt, ở trong bệnh ôn nhiệt thì đó là dấu hiệu chủ yếu chỉ nhiệt đã nhập huyết phần. Ban chẩn sắc tươi sáng, đỏ đắn là bệnh tình còn nhẹ, mờ ám là bệnh tình đã nặng.
Phụ: Phép vọng chẩn về bệnh giun đũa: dùng phép vọng chẩn để chẩn đoán bệnh giun đũa thời xa xưa đã được ghi lại, gần đây có người quan sát hơn một nghìn trường hợp trẻ em bị bệnh giun đũa đã chứng minh các phương pháp chẩn đoán là có ý nghĩa nhất định. Trẻ em bị bệnh giun đũa thể hiện như sau:
- Trên mặt lưỡi xuất hiện ban đỏ, ven bờ rõ nét, hình tròn thường lỗi khỏi mặt lưỡi như đầu vú, nơi chốn không nhất định, số lượng không kể.
- Niêm mạc môi dưới xuất hiện những hạt tròn, thương là màu xám, nốt chẩn nhỏ như đầu mũi kim, số lượng không kể.
- Củng mạc xuất hiện xanh chàm, hình tam giác, tròn, hoặc bán nguyệt, phân bố ở trên lưỡi trên đỉnh mao mạch (huyết quản nhỏ) không lồi khỏi bề mặt.
- Trên mặt lưỡi xuất hiện ban trắng, hình tròn, rất rõ ràng, ở giữa trắng nhạt, không lồi khỏi bề mặt.
Đây là bốn loại dương tính thể chứng, có khi đơn độc, hoặc cùng xuất hiện, thường thấy nhất là ban đỏ trên lưỡi. Thể chứng ít, nhiều thường là bằng chứng của số lượng giun nhiều ít ở trong bụng. Tỷ lệ đúng của vọng chẩn so với xét nghiệm phân (bao gồm cả phép đếm trứng) là rất cao. Cách này không cần chuẩn bị khác, giản tiện, sử dụng, chắc chắn.
B. THIỆT CHẨN ( XEM LƯỠI )
Thiệt chẩn là bộ phận trọng yếu trong chẩn đoán đông y. Đông y quan sát cái lưỡi thật tỷ mỷ, từ trong thiệt chẩn mà tìm thấy thực hư của tạng phủ, thịnh suy của khí huyết, hao tổn của tân dịch và tính chất của ngoại tà. Do đó ở một mức độ nhất định có thể giúp cho phán đoán tính chất, mức nông sâu và hướng phát triển của bệnh tật.
B.a. Chất lưỡi
Chất lưỡi chỉ là cái thể của lưỡi, nó cùng với các tạng phủ có quan hệ mật thiết. Loại quan hệ này có đặc điểm ở từng chỗ khác nhau. Đầu lưỡi chủ về phản ánh bệnh biến của tim phổi, như đầu lưỡi đỏ là tâm hoả thượng viêm. Ven lưỡi chủ về phản ánh bệnh biến của gan mật, như ven lưỡi có ban tím là can uất (trên lâm sàng thường thấy một số người bệnh gan thì ven lưỡi có điểm ban xanh tím, hoặc tĩnh mạch dưới lưỡi trương phồng). Phần giữa lưỡi chủ yếu phản ánh bệnh biến tỳ, vị. Cuống lưỡi chủ yếu phản ánh bệnh biến của thận.
Trên lâm sàng quan sát chất lưỡi và theo biến hoá 4 mặt: mầu sắc, độ ẩm thấp, hình thái và đồng thái để phân tích.
- Độ ẩm thấp và màu sắc chính của lưỡi thường là: hồng nhạt và ẩm nước.
- Sắc lưỡi nhạt hơn bình thường là huyết hư, dương hư hoặc hàn chứng. Sắc nhạt mà không rêu là khí huyết lưỡng hư: nhạt mà ẩm trơn là hàn. Loại sắc lưỡi này gọi là lưỡi trắng nhạt, tức là hồng ít, trắng nhiều. Chứng bệnh là dinh dưỡng trở ngại, bần huyết và một số bệnh nội tiết như phù niêm dịch (dịch dẻo dính) đều thấy lưỡi trắng nhạt.
Sắc lưỡi hồng tươi mà khô là âm hư; hồng tươi mà không rêu là âm hư hoả vượng ở cuối kỳ ôn nhiệt, lao phổi; cường năng tuyến giáp trạng và bệnh đái đường cũng thấy lưỡi âm hư. Chất lưỡi mầu hồng thắm hoặc đỏ thẫm thuộc về thực nhiệt. Nói tóm lại: đậm là nhiệt sâu. Khi bị bệnh truyền nhiễm cấp tính quá nặng hoặc khi viêm nhiễm đưa đến nhiễm độc máu đều thấy lưỡi đỏ sẫm mà sinh gai nhọn là doanh phần nhiệt thịnh; đỏ sẫm mà sắc tươi là nhiệt thương tâm bào lạc. Chứng bại huyết và khi bị bệnh cấp tính viêm nhiễm nghiêm trọng cũng thấy lưỡi đỏ sẫm. Lưỡi đỏ mà bóng, không rêu là vị âm mất đi, bệnh tình nguy ngập.
Sắc lưỡi từ đỏ sẫm chuyển sang đỏ tím mà khô là dấu hiệu chính để chỉ bệnh ôn nhiệt phát triển đến huyết phần. Viêm nhiễm nặng khi phát triển đến suy thấp và tuần hoàn cũng xuất hiện lưỡi tím. Tím mở là huyết ứ, tím nông mà ẩm là hàn chứng.
Lưỡi xanh lam là chứng nặng của khí, huyết cùng suy thoái. Xanh mà sáng bóng, không rêu là dự đoán sẽ xấu. Khi hô hấp, tuần hoàn suy kiệt, thiếu ô xy năng cũng xuất hiện lưỡi xanh.
B.b. Hình thái và động thái của lưỡi:
Chủ yếu là quan sát các tình trạng thể lưỡi béo, gầy, già, non, khô, ẩm, rãnh nứt và hoạt động.
Dáng lưỡi béo mập, hồng nhạt mà ven lưỡi có ngấn răng là hư chứng, hàn chứng. Lưỡi to béo là chứng suy tuyến giáp, đầu chi phình to. Lưỡi to béo mà đỏ sẫm là tân dịch đã tổn thương. Chất lưỡi rắn chắc, thô kệch (ngược với béo mập) là thuộc thực chứng nhiệt chứng.
Trên lưỡi mọc gai nhọn là nhiệt cực nội kết, gai nhọn càng to, càng nhiều là nhiệt kết càng sâu. Sốt cao, tinh hồng nhiệt (sốt đỏ mặt như con tinh tinh), viêm phổi chứng nặng đều thấy trên lưỡi mọc gai.
Trên lưỡi có vết nứt thương là âm hư hay dinh dưỡng kém, nhưng sốt cao mất nước cũng thấy nứt. Cá biệt có khi lưỡi nứt là tiên thiên tính.
Dáng lưỡi khi co duỗi thì rung động, sắc lưỡi hồng nhạt là dương khí bất túc, chứng này thấy ở bệnh thần kinh suy nhược và thể hư sau khi khỏi ốm. Rung động mà sắc lưỡi hồng tươi là âm hư, thường thấy ở can phong nội động, trúng gió và cường tuyến giáp.
Lưỡi lè ra mà lệch thường là chứng trúng gió.
Lưỡi cứng, vận động khó khăn, vì vậy mà tiếng nói không rõ là can phong nội động gây ra, thường là điềm báo trước chứng trúng gió hoặc là di chứng sau khi trúng gió.
Lưỡi mềm yếu vô lực cũng phát sinh ở tình hình bệnh khác nhau. Lưỡi hồng, khô mà yếu là nhiệt thịnh thương âm. Bệnh lâu ngày chất lưỡi trắng nhạt mà yếu là khi huyết đều hư. Lưỡi đỏ sẫm mà yếu là âm hao đã cực.
B.c. Rêu lưỡi
Rêu lưỡi bình thường do vị khí hình thành thì trắng , mỏng, sáng và ẩm. Khi có bệnh rêu lưỡi phát sinh các loại biến hoá. Lúc chẩn đoán, quan sát rêu lưỡi chủ yếu là theo mầu sắc, tân dịch, dầy mỏng. Nhưng cần chú ý loại trừ hiện tượng giả do ăn uống, hoặc do thuốc gây nên như ăn trầu, ô mai,
đậu đen...
- Rêu trắng đều thuộc hàn chứng, hư chứng (cũng có thuộc nhiệt, thuộc thực) trắng mỏng mà trơn là ngoại cảm phong hàn, trắng nõn mà trơn là lý hư hàn. Trắng nhẫy mà nhẵn là trong có đàm thấp. Trắng như rắc phấn là bệnh ôn dịch. Trong bệnh nhiệt, rêu lưỡi trắng có lẫn vàng là bệnh tà hoả nhiệt từ biểu vào lý, chứng tỏ bệnh tình đang phát triển.
- Rêu vàng thuộc nhiệt chứng, sắc vàng càng sau nhiệt càng nặng, rêu mỏng hơi vàng là ngoại cảm phong nhiệt. Vàng dầy mà khô là vị nhiệt thương âm, vàng mà dầy nhẫn là tỳ vị thấp nhiệt hoặc tỳ vị tích trệ. Sắc vàng nhạt mà ẩm hoặc kèm theo dầy, rêu đục là do thấp trệ gây ra.
- Rêu đen thường thuộc lý chứng, nói chung thể hiện tình rất nặng, nhưng có chia ra hàn nhiệt. Rêu lưỡi đen, ẩm trơn, chất lưỡi hồng nhạt là hàn chứng. Rêu lưỡi đen, khô ráo chất lưỡi hồng tươi là hoả nhiệt thương âm. Rêu lưỡi đen mà ẩm hoặc kèm theo dầy, rêu đục là do thấp trệ gây ra.
- Rêu đen thường thuộc lý chứng, nói chung thể hiện bệnh tình rất nặng, nhưng có chia ra hàn nhiệt. Rêu lưỡi đen, ẩm trơn, chất lưỡi hồng nhạt là hàn chứng. Rêu lưỡi đen, khô ráo chất lưỡi hồng tươi là hoả nhiệt thương âm. Rêu lưỡi đen mà táo là hoả thịnh tân khô. Rêu đen khô nứt, gai nhọn cao lên là thận thuỷ tưởng tuyệt, bệnh tình nguy nặng.
Rêu lưỡi từ dầy chuyển thành mỏng, mặt lưng sáng trơn như gương, hoặc rêu lưỡi rải rác có chỗ xanh là tân dịch hao tổn, âm hư thuỷ khô, bệnh tình nghiêm trọng. Những người bệnh thiếu máu ác tính trẻ em trường vị có thấp nhiệt hoặc có ký sinh trùng cũng thấy có rêu lưỡi trắng mỏng hoặc hơi vàng, lại cũng có rải rác rêu xanh. Nguyên nhân của rải rác rêu xanh là cục bộ niêm mạc co rút tạo ra niêm mạc chết mà thành.
Tóm lại: Rêu lưỡi từ trắng biến thành vàng, xong chuyển thành rêu trắng môi là thuận chứng. Ruê lưỡi từ trắng chuyển thành vàng, rồi chuyển thành đen là nghịch chứng. Rêu lưỡi chuyển biến nhanh cũng thể hiện bệnh tình ác hoá.
Trên đầy giới thiệu chất lưỡi và rêu lưỡi chỉ để học tập. Trên thực tế thiệt chẩn là quan sát toàn bộ cái lưỡi theo hiện tượng, tất nhiên cần quan sát toàn bộ chất lưỡi và rêu lưỡi kết hợp lại mà phân tích, bởi vì biến hoá của chất lưỡi và rêu lưỡi có quan hệ hỗ tương phức tạp.
Tổng hợp quan hệ biến hoá của chất lưỡi và rêu lưỡi với bệnh chứng đại để là: phàm thuộc nhiệt chứng, chất lưỡi tất hồng, rêu lưỡi tất vàng, phàm thuộc hàn chứng, chất lưỡi tất nhạt, rêu lưỡi tất nhiều nước mà trơn; phàm thuộc thực chứng, thể lưỡi tất rắn chắc; phàm thuộc hư chứng, thể lưỡi tất phì nộn (béo non); phàm thuộc biểu chứng, rêu lưỡi trắng mỏng không khô. Khí bệnh chủ yếu biến hoá ở rêu lưỡi. Huyết bệnh chủ yếu biến hoá ở chất lưỡi.
Để tiện nắm được thiệt chẩn, nay đem chất và rêu lưỡi kê thành bảng dưới đây theo biến hoá thường thấy và kết hợp với biện chứng luận trị.
Chất
lưỡi
|
Rêu
lưỡi
|
Biện
chứng
|
Hồng
nhạt
|
Trắng
rất mỏng
|
Khí
huyết hư
|
Hồng
nhạt, béo non, có ngấn răng
|
Trắng
mỏng
|
Dương hư
|
Trắng
nhạt, béo non
|
Xám đen,
ẩm trơn, sáng nhẵn
|
Dương
suy tạng hàn, đàm thấp đình ở trong
|
Hồng
nhạt nõn nà, có vết nứt
|
Không
rêu
|
Khí hư
âm hao
|
Hồng nhạt
|
Trắng
mỏng, ẩm
|
Ngoại
cảm phong hàn
|
Hồng nhạt
|
Trắng,
dầy, trơn
|
Đàm thấp
trọc nội đình hoặc ăn không tiêu
|
Hồng nhạt
|
Trắng
dày như rắc phấn
|
Ôn dịch
hoặc có ung bên trong
|
Hồng nhạt
|
Trong
cái trắng có ít vàng dầy
|
Biểu tà
bắt đầu chuyển vào lý
|
Hồng nhạt
|
Giữa và
gốc lưỡi vàng dày, ven lưỡi trắng mỏng mà ẩm
|
Biểu tà
nhập lý, vị trường có nhiệt
|
Hồng
tươi
|
Trắng
cực mỏng
|
Âm hư
hoả vượng,
|
Hồng
nhiều
vết nứt
sâu
|
Gần như
không rêu
|
Thuỷ bất
tế hoả hoặc chân âm hao tổn
|
Hồng
|
Vàng
mỏng
|
Khí phần
nhiệt thịnh hoặc trường vi có nhiệt
|
Hồng
|
Vàng
trơn
|
Thấp
nhiệt nhập khí phần
|
Hồng
|
Vàng dầy
khô
|
Tà nhiệt
thâm nhập lý kết đã thành
|
Hồng
|
Đen khô
|
Hoả
nhiệt thương âm
|
Đỏ sẫm
|
Vàng úa
|
Nhiệt đã
theo khí vào doanh
|
Đỏ tím
|
Vàng sâu
hoặc vàng, vàng trắng mà khô ít rêu hoặc không rêu
|
Nhiệt
vào phần huyết
|
Xanh tím
|
Trắng ẩm
|
Nội hàn
cực nặng, xuất huyết ứ trệ
|
B.d. Một số tài liệu hiện đại nghiên cứu về thiệt chẩn:
Gần đây tài liệu vận dụng tri thức và phương pháp hiện đại vào nghiên cứu thiệt chẩn Đông y ngày càng nhiều, từ tổ chức học, sinh hoá học, vi sinh vật học và ở các góc độ khác nhau của các bộ môn lâm sàng, người ta đã quan sát về sự biến hoá của cơ thể và chất lưỡi cho thấy nó có liên quan tới nội tại của bệnh tật, và sơ bộ đã rút ra một số quy luật, khái quát làm mấy điểm để cùng tham khảo.
d.1. Những nhân tố làm thay đổi và thể cái lưỡi:
- Mầu sắc của chất lưỡi biến hoá và hình thái tuần hoàn máu ở lưỡi có quan hệ mật thiết. Khi thiếu máu và phù nề ở các tổ chức thì sắc lưỡi biến thành nhạt. Khi xung huyết hoặc huyết quản tăng sinh thì sắc lưỡi đậm thêm. Xuất huyết hoặc thiếu ôxy đến mức tăng hoàn nguyên hồng cầu non thì sắc lưỡi xanh tím.
- Chất lưỡi phì nộn chủ yếu là do dưỡng chấp giảm, phù nề ở tổ chức lưỡi tạo thành. Nếu do phù nề hoặc giảm trương lực cơ thì lưỡi to ra hoặc mềm nhẽo, ép vào lợi thì thành ngấn răng.
- Chất lưỡi khô là do bài tiết nước bọt giảm, hoặc có kèm theo lượng mức trong nước bọt giảm gây ra. Người bệnh âm hư thường có cường giao cảm, thần kinh phó giao cảm bị ức chế làm thay đổi chất và lượng của việc bài tiết nước bọt, làm cho chất lưỡi khô.
- Rãnh nứt trên lưỡi xuất hiện là do nhũ đầu của lưỡi dung hợp tạo thành lỗ rãnh. Có người cho rằng nó có quan hệ với việc niêm mạc lưỡi co rút. Mặt lưỡi sáng bóng là do niêm mạc trên da lưỡi co rút tạo thành.
d.2. Nhân tốt của biến hoá rêu lưỡi
- Rêu lưỡi bình thường là do sừng hoá chỏm chót của nhũ đầu và trong lỗ rỗng không ngừng làm rơi sừng hoá da, ti khuẩn, bột nhỏ của đồ ăn, tế bào thấm xuất cùng với nước bọt cấu thành.
- Rêu lưỡi biến dày là do sau khi bị bệnh, kém ăn, hoạt động của mỗi lưỡi giảm bớt ma sát, hoặc do phát sốt, mất nước, phân bố nước bọt kém, ảnh hưởng đến tác dụng làm sạch của lưỡi, đưa đến mớ nhũ đầu dài ra.
- Rêu lưỡi từ trắng biến sang vàng là do mớ nhũ đầu tăng sinh, sừng hoá tăng mạch, tế bào ẩm ướt, huyết quản giãn to và chứa lượng khuẩn nhiều gây nên. Nó có quan hệ lớn với chứng viêm nhiễm, phát sốt và công năng tiêu hoá rối loạn.
- Sắc rêu lưỡi biến thành đen là bởi mớ nhũ cầu trắng sinh quá nhiều, làm xuất hiện sắc đen trong tế bào sừng hoá và sắc đen độc tố của khuẩn tăng thêm gây nên. Bệnh lý lúc này đã lan sang tầng dưới của niêm mạc. Sốt cao mất nước, viêm nhiễm, chất độc kích thích, công năng dạ dày và ruột rối loạn, nhiễm độc khuẩn, dùng thuốc kháng sinh diện rộng kéo dài đều có quan hệ mật thiết với việc sinh ra rêu lưỡi đen.
d.3. Chất lưỡi biến hoá và quan hệ của bệnh tật
- Biến hoá của hình tượng cái lưỡi đều phản ảnh sự nặng nhẹ và tiến triển của bệnh tình. Chất lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc vàng mỏng, ẩm hay hơi nhẫy, đều thuộc bệnh tình rất nhẹ. Chất lưỡi hồng sẫm, tím chàm, rêu lưỡi vàng dày, sạm đen, mềm nhẽo, khô khan, rất khô, hoặc sáng của không rêu đều thuộc bệnh tình rất nặng.
Ví dụ: như người bị bỏng, mặt vết bỏng càng lớn, mức thương càng nặng, chất lưỡi biến hồng càng nhanh, càng rõ ràng, nếu kiêm phát chứng bại huyết, thì chất lưỡi càng hồng sẫm, khô cứng. Do vậy đối với thời kỳ đầu của chứng bại huyết, nó giúp cho sự chẩn đoán. Viêm gan siêu vi trùng, số người rêu lưỡi mỏng là rất nhiều, trắng nhầy hoặc trắng dầy có ít. Bệnh tật có xu hướng khỏi, thì rêu lưỡi khôi phục, hoặc gần như bình thường. Bệnh tình tái diễn, thì biểu hiện rêu lưỡi kéo dài không lui. Do đó, ý nghĩa rêu lưỡi ở trong chẩn bệnh tật cũng có giá trị tham khảo.
- Một số biến hoá của lưỡi có ý nghĩa đặc thù về triệu chứng nhẹ, nặng của bệnh. Viêm nhiễm, khối u ác tính, ba - dơ - đô, can, phế, thận có bệnh nặng về thực chất cơ bản, thường thấy lưỡi âm hư. Chất lưỡi của số bệnh này là hồng sẫm, thân luỗi gầy nhỏ, khô mà có rãnh nứt, rêu sáng xanh, ven đầu lưỡi có gai hồng. Cuối kỳ, toàn bộ lưỡi sáng như gương. Chất lưỡi của bệnh gan xơ hoá nhẹ, thường là hồng nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc vàng mỏng. Tuần hoàn ở mỏm tĩnh mạch bị trở ngại thì chất lưỡi chuyển snag tím, thể lưỡi trương to, tĩnh mạch dưới lưỡi trương to từng khúc. Rêu lưỡi từ trắng mỏng chuyển sang sáng xanh thường biểu hiện công năng của gan rối loạn. Quan sát biến hoá ở lưỡi, có thể giúp cho sớm phát hiện hôn mê gan. Người bị viêm gan nặng, chết lưỡi thường hồng thẫm, khô khan, ít nước; khi bệnh tình chuyển biến xấu càng thấy rõ ràng, rêu lưỡi dày, nhiều, nhầy mà khô, sắc vàng hoặc đen cũng có khi sáng sủa không rêu.
Người ung thư mũi ở thời kỳ cuối mới thấy xuất hiện tượng lưỡi hồng, sáng sủa không rêu, có khi lại mọc mụn nhọt ra ngoài.
C. XEM VĂN NGÓN TAY TRẺ EM. (CHỈ VĂN)
Văn ngón tay là tĩnh mạch nhỏ nổi ở mặt ngoài ngón tay trỏ (phía xương quay). Trẻ em mới đẻ, da dẻ mềm mỏng, tĩnh mạch dễ bộc lộ, văn trên ngón tay rất dễ nhận biết, sau đó tuỳ theo tuổi lớn dạ dày thêm văn tay mời dần. Ở mức độ nhất định, văn ngón tay có thể phản ảnh tính chất và mức độ nặng nhẹ của bệnh biến. Trẻ em mạch bộ ngắn, nhỏ, khi có bệnh luôn kêu khóc đã ảnh hưởng đến tính chân thực của mạch tượng, cho nên lâm sàng nhi khoa đối với trẻ em dưới 3 tuổi thường dùng cách xem văn tay giúp cho thiết chẩn.
Xem văn ngón tay, chủ yếu là xem màu sắc và độ chứa đựng máu của tĩnh mạch nổi. Chia ngón tay trỏ ra làm 3 phần. Đốt 1 gọi là phong quan, đốt 2 gọi là khí quan, đốt 3 gọi là mệnh quan.
Khi xem, người thầy thuốc đưa ngón tay trẻ ra chỗ sáng, lấy ngón tay cái và ngón trỏ tay trái của mình nắm lấy đầu chót ngón trỏ của đứa trẻ, dùng ngón trỏ cái tay phải vuốt nhẹ trên ngón trỏ của đứa trẻ về phía lòng bàn tay vài lần để văn tay nổi rõ rồi mới xem.
Chỉ văn bình thường có mày tím nhạt mà tươi sáng, nhất thiết không vượt quá phong quan. Khi có bệnh, độ chứa đựng máu và màu sắc của văn biến hoá như sau:
- Chỉ văn rất nổi tiếng về biểu chứng
- Chỉ văn chìm là bệnh tại lý
- Chỉ văn sắc nhạt là hư chứng, hàn chứng
- Chỉ văn sắc tím hồng là thuộc nhiệt chứng
- Chỉ văn sắc xanh là phong hàn, hoặc kinh phong, hoặc đau đớn, hoặc thương thực, hoặc đàm khí ngược lên.
- Chỉ văn sắc đen là ứ huyết
- Chỉ văn uất trệ (động đến mà máu không lưu thư) là đàm thấp, thực trệ, hoặc tà nhiệt uất kết, thực chứng.
Về vị trí mà nói, chỉ văn hiện ở phong quan là bệnh tình còn nhẹ và nông. vươn dài qua đến khí quan là bệnh tình đã nặng. Vươn dài qua mệnh quan tới tận đầu mút ngón tay là "thấu quan xạ giáp" thì bệnh tình đã nguy ngập.
Tóm lại
Chỉ văn thể hiện:
- Phù, trầm là biểu lý
- Hồng, tím là hàn nhiệt
- Nhạt, trệ là hư thực
- Tam quan là nặng nhẹ
Một số tài liệu hiện đại nghiên cứu về chỉ văn nói chung đã cho rằng biến hoá độ chứa đựng máu, chủ yếu quan hệ với tĩnh mạch áp ở trẻ em. Bệnh tâm lực suy kiệt, viêm phổi, đại đa số thấy chỉ văn vươn tới mệnh quan, đó là do tĩnh mạch áp gây ra. Tĩnh mạch áp càng cao, độ chứa đựng máu chỉ văn càng lớn, đều hướng ra đầu ngón tay mà vươn tới. Mầu đậm của chỉ văn ở mức độ khác nhau, phản ánh trình độ thiếu khí trong cơ thể. Thiếu khí càng nhiều thì lượng hồng cầu non hoàn nguyên trong máu càng cao, màu xanh tím của chỉ văn cũng rõ thêm. Trẻ em bần huyết, do hồng cầu và hồng cầu non giảm, chỉ văn nhạt đi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét